Hiện không có giới hạn quy định vi sinh vật học đối với virus trong thức ăn chăn nuôi và các thành phần thức ăn.
Mục tiêu: Một mục tiêu hiệu suất (PO) đã được đề xuất trong nghiên cứu này nhằm sản xuất một lô huyết tương heo sấy phun (SDPP) không chứa bất kỳ hạt virus truyền nhiễm nào.

Phương pháp: Các mức PO là −7,0, −7,2 và −7,3 log TCID50/g trong SDPP được ước tính cho ba kích thước lô (10, 15 và 20 tấn).
Kết quả: Một khảo sát cơ bản về sự hiện diện của virus dịch tả heo (PEDV) trong huyết tương heo thô cho thấy nồng độ −1,0 ± 0,6 log TCID50/mL được tính bằng cách sử dụng đường chuẩn TCID50-qPCR. Nồng độ trung bình của virus dịch tả châu Phi (ASFV) trong huyết tương thô được ước tính là 0,6 log HAD50/mL (0,1–1,4, khoảng tin cậy 95%) trong tình huống tiền lâm sàng ( từ những con heo không có triệu chứng và nhiễm virus không phát hiện). Các tình huống xử lý khác nhau (cơ bản: sấy phun + bảo quản lâu dài) và cơ bản + bức xạ tia cực tím (UV) đã được đánh giá để đạt được các mức PO được đề xuất trong nghiên cứu này. Các tình huống xử lý cơ bản và cơ bản + tia UV có hiệu quả >95% và 100% trong việc đạt được PO cho PEDV với các kích thước lô khác nhau. Đối với ASFV trong SDPP trong tình huống tiền lâm sàng, việc tuân thủ PO đạt 100% cho tất cả các tình huống xử lý được đánh giá.
Kết luận: Cần có thêm nghiên cứu để xác định các cơ chế cơ bản của việc bất hoạt virus trong quá trình bảo quản thức ăn, nhằm thúc đẩy hơn nữa các nỗ lực quản lý rủi ro an toàn thức ăn chăn nuôi trên toàn cầu.
Quantitative risk assessment model of the presence of porcine epidemic diarrhea and African swine fever viruses in spray-dried porcine plasma.Frontiers in Veterinary Science 11/2024/https://www.frontiersin.org/journals/veterinary science/articles/10.3389/fvets.2024.1371774 DOI=10.3389/fvets.2024.1371774