X
XLinkedinWhatsAppTelegramTelegram
0
Đọc bài báo này bằng:

Ca lâm sàng – Giảm đàn: Streptococcus, một thách thức không hề nhỏ!

Giảm đàn được xem là giải pháp để giảm tỷ lệ chết và hạn chế việc sử dụng kháng sinh quá mức ở heo cai sữa và các giai đoạn tiếp theo.

Trang trại được đề cập trong bài viết này là trang trại cấp I với quy mô khoảng 2.500 nái, nằm trong khu vực có mật độ chăn nuôi heo cao. Heo con được cai sữa ở 4 tuần tuổi và chuyển đến khu cai sữa bên ngoài trại. Tùy theo quy mô, mỗi khu cai sữa sẽ nhận heo con tương ứng 2–3 tuần cai sữa. Theo thời gian, trại đã chuyển từ việc nhập heo hậu bị từ bên ngoài sang tự nuôi hậu bị tại trại, và hiện chỉ còn nhập tinh để phối giống.

Đàn heo được tiêm phòng PRRSV định kỳ. Về an toàn sinh học bên ngoài, trại được thiết kế và quản lý tốt, thể hiện trong hình (Hình 1): không có phương tiện nào được phép vào khu sạch và không ai được vào trại nếu không đi qua khu vực quy định có trang bị phòng tắm và quần áo chuyên dụng; việc thu gom heo chết được thực hiện ở khu vực bên ngoài.

Hình 1. Ảnh chụp từ trên cao của trại heo nái.
Hình 1. Ảnh chụp từ trên cao của trại heo nái.

Do trại nằm trong khu vực mật độ chăn nuôi cao, nên từ trước đến nay, trại luôn trong tình trạng không ổn định PRRSV. Thực tế, mỗi năm trung bình có hai chủng PRRSV mới xâm nhập vào đàn, gây ảnh hưởng lớn đến năng suất sinh sản của heo nái, và đặc biệt là tỷ lệ chết ở khu cai sữa.

Tỷ lệ chết tăng lên trong những tuần ngay sau khi dịch bùng phát chủ yếu do chất lượng heo cai sữa kém. Ở các tuần tiếp theo, tỷ lệ chết tăng không chỉ do triệu chứng hô hấp gây ra bởi virus PRRS, mà chủ yếu là do sự gia tăng các nhiễm trùng kế phát do vi khuẩn, bao gồm: Escherichia coli, Glasserella parasuis, và đặc biệt là Streptococcus suis.

Từ năm 2018, khi các hướng dẫn sử dụng kháng sinh một cách thận trọng được áp dụng, các hoạt động nghiên cứu và thử nghiệm nhằm giảm tỷ lệ chết ở khu cai sữa đồng thời giảm sử dụng kháng sinh và ngừng dùng các kháng sinh quan trọng (CIAs) đã được đẩy mạnh.

Trong khi các vấn đề tiêu chảy giai đoạn theo mẹ và sau cai sữa do E. coli chỉ gây thiệt hại thấp và mức sử dụng kháng sinh ở mức vừa phải, thì đối với Streptococcus suis thì hoàn toàn khác.

Việc sử dụng penicillin (amoxicillin) là cần thiết ở cả heo con theo mẹ, với nhiều lần tiêm bắp, và ở giai đoạn cai sữa thông qua đường miệng và đường tiêm bắp, với mức sử dụng cao hơn nhiều so với mục tiêu (xem Hình 2 và 3). Và mặc dù đã sử dụng điều trị và metaphylaxis (điều trị phòng nhóm), tỷ lệ chết vẫn ở mức cao rõ rệt.

Hình 2. So sánh mức sử dụng kháng sinh tại trại nái và các khu cai sữa với mức trung bình quốc gia theo dữ liệu Classyfarm, hệ thống phần mềm của Bộ Y tế dùng để giám sát trang trại. DDD (liều dùng trung bình của một hoạt chất, tính theo mg trên mỗi kg thể trọng)
Hình 2. So sánh mức sử dụng kháng sinh tại trại nái và các khu cai sữa với mức trung bình quốc gia theo dữ liệu Classyfarm, hệ thống phần mềm của Bộ Y tế dùng để giám sát trang trại. DDD (liều dùng trung bình của một hoạt chất, tính theo mg trên mỗi kg thể trọng)
Hình 3. Phân tích mức tiêu thụ thuốc theo từng nhóm trong giai đoạn cai sữa, dựa trên dữ liệu Classyfarm — hệ thống tin học của Bộ Y tế dùng để giám sát trang trại.
Hình 3. Phân tích mức tiêu thụ thuốc theo từng nhóm trong giai đoạn cai sữa, dựa trên dữ liệu Classyfarm — hệ thống tin học của Bộ Y tế dùng để giám sát trang trại.

Sau khi thử nghiệm autovaccine với nhôm hydroxide làm chất bổ trợ vào năm 2018 nhưng không đạt cải thiện, đến năm 2020 trại quyết định triển khai một dự án phân tích chi tiết các chủng vi khuẩn đang lưu hành trên heo nái và heo con sau cai sữa.

Kết quả cho thấy serotype lưu hành trên cả heo nái và heo con sau cai sữa đều là Streptococcus suis serotype 9. Đồng thời, các yếu tố độc lực liên quan đến serotype này cũng được đánh giá. S. suis biểu hiện nhiều yếu tố độc lực, trong đó quan trọng nhất gồm: protein giải phóng muramidase (mrp) được mã hóa bởi gen mrp, yếu tố ngoại bào (ef) được mã hóa bởi gen epf, và độc tố suilysin (hemolysin) được mã hóa bởi gen sly (Silva et al., 2006).

Serotype tại trại luôn gắn với hai yếu tố độc lực mrp và sly, như thể hiện ở Bảng 1. Do đó, chúng tôi cũng tiến hành thử nghiệm autovaccine từ serotype 9 với Montanide làm chất bổ trợ. Phác đồ yêu cầu tiêm hai liều cho heo nái sinh sản, và sau đó có thể tiêm cho heo con.

Bảng 1: Các chủng phân lập trên heo nái và heo cai sữa: serotype, các yếu tố độc lực và tính mẫn cảm kháng sinh. (S = nhạy, R = kháng, I = trung gian).

Mẫu serotype Yếu tố độc lực Ceftiofur Penicillin Ampicilin Sulfamethoxazole+
Trimethoprim
Enrofloxacin Tetracycline Florfenicol
Não 9 mrp/sly S I S S I R S
Não 2 neg S S S S R R S
Não 9 mrp/sly S R S S S R S
Khớp 9 mrp/sly S R S S I R S
Não 9 mrp/sly S R I S R R S
Lách 9 mrp/sly S I S S I R S
Não 9 mrp/sly S R I S I R S

Quy trình này cũng không mang lại bất kỳ cải thiện đáng kể nào về giảm tỷ lệ chết và/hoặc giảm sử dụng kháng sinh.

Từ năm 2018 đến 2021, trang trại đã tiến hành thêm nhiều thử nghiệm khác gồm: sử dụng monolaurin, chất axit hóa, và các vaccine thương mại. Tuy nhiên, không có biện pháp nào mang lại cải thiện.

Tình trạng sức khỏe, đặc biệt ở heo con sau cai sữa, vẫn không đạt mục tiêu: thiệt hại kinh tế đến từ tỷ lệ chết và giá trị kinh tế giảm của heo con không đạt chuẩn (Hình 4). Trong năm phân tích cuối (2020–2021), 15% heo con sau cai sữa không được bán hoặc không bán được theo giá thị trường. Bên cạnh đó, mục tiêu giảm sử dụng kháng sinh cũng không đạt được.

Hình 4. Diễn biến tỷ lệ chết (%) và tỷ lệ heo con phân loại cấp 2 tại thời điểm cai sữa từ tháng 1/2018 đến tháng 3/2022.
Hình 4. Diễn biến tỷ lệ chết (%) và tỷ lệ heo con phân loại cấp 2 tại thời điểm cai sữa từ tháng 1/2018 đến tháng 3/2022.

Vào mùa thu năm 2021, trang trại quyết định tiến hành giảm đàn/tái đàn hoàn toàn nhằm “thiết lập lại” tải lượng vi khuẩn trong trại. Đối với virus PRRS, gần như không có nhiều biện pháp hiệu quả; mục tiêu của chúng tôi là giảm thiểu các nhiễm trùng kế phát do vi khuẩn.

Phối hợp với công ty di truyền đang cung cấp heo giống, trại đã lựa chọn được một hệ thống tháp nhân giống phù hợp với nhu cầu. Sau đó, trại tiến hành kiểm tra sàng lọc kỹ lưỡng trại nguồn sẽ cung cấp heo để tái đàn, đặc biệt tập trung vào S. suis:

  • 60 mẫu ngoáy thanh quản được lấy từ heo con ở nhiều lứa tuổi khác nhau, tại các thời điểm dễ nhiễm nhất (5–12 tuần tuổi)
  • Môi trường vận chuyển sử dụng là amies + than hoạt tính, giúp tăng độ nhạy phát hiện
  • Trong 60 mẫu, 45 chủng vi khuẩn được phân lập, và không chủng nào thuộc các serotype 1, 2, 4, 7 hoặc 9, vốn liên quan đến các ca bệnh lâm sàng
  • Trong số 45 chủng S. suis không định type được, chỉ có 4 chủng mang một trong ba yếu tố độc lực gồm (epf, mrp, or sly) và không chủng nào mang đồng thời cả ba yếu tố độc lực.

Dường như rất khó có khả năng rằng đàn heo trong hệ thống tháp nhân giống này lại xuất hiện triệu chứng viêm màng não liên quan đến liên cầu khuẩn (S. suis). Hơn nữa, tại các trại nhân giống này, việc sử dụng aminopenicillin hầu như không đáng kể.

Sau khi được đảm bảo bởi kết quả điều tra dịch tễ học, trại bắt đầu lên kế hoạch nhập đàn heo mới.

Những lứa đẻ đầu tiên diễn ra vào đầu năm 2023. Ngay khi lứa đầu tiên được cai sữa, trại bị xâm nhập bởi một chủng PRRSV mới. Mặc dù vậy, các dữ liệu hiện có vẫn cho thấy tình hình khá khả quan về tỷ lệ chết (Hình 5) và mức sử dụng kháng sinh (Hình 6). Do đó, mặc dù các lứa đầu tiên bắt đầu với heo con sinh ra sau một đợt bùng phát PRRS, và toàn bộ đều là heo con của heo nái lứa đầu, tỷ lệ chết vẫn có xu hướng giảm khoảng 50% so với giai đoạn trước.

Hình 5. Tỷ lệ chết (%) và tỷ lệ heo con phân loại cấp 2 tại thời điểm cai sữa trước (tháng 10/2020 đến tháng 3/2022) và sau (tháng 3 đến tháng 7/2023) giai đoạn giảm đàn/tái đàn.
Hình 5. Tỷ lệ chết (%) và tỷ lệ heo con phân loại cấp 2 tại thời điểm cai sữa trước (tháng 10/2020 đến tháng 3/2022) và sau (tháng 3 đến tháng 7/2023) giai đoạn giảm đàn/tái đàn.
Hình 6. Diễn biến mức tiêu thụ kháng sinh (DDD: liều dùng trung bình của một hoạt chất tính theo mg/kg thể trọng) tại trại nái so với mức trung bình toàn quốc (dữ liệu năm 2019 là không đầy đủ).
Hình 6. Diễn biến mức tiêu thụ kháng sinh (DDD: liều dùng trung bình của một hoạt chất tính theo mg/kg thể trọng) tại trại nái so với mức trung bình toàn quốc (dữ liệu năm 2019 là không đầy đủ).

Trong quá trình ra quyết định và xây dựng kế hoạch kinh doanh, các yếu tố hữu hình và đo lường được như cải thiện năng suất và giảm chi phí thuốc thú y đã được xem xét. Đồng thời, ở khía cạnh đạo đức, tức tuân thủ hướng dẫn sử dụng kháng sinh một cách thận trọng, cũng được coi là yếu tố có tính quyết định. Trại cũng cần tiến hành bảo trì và cải tạo, nên thời gian để trống kéo dài hơn bình thường.

Mặc dù có thể có biến động đáng kể tùy theo thời điểm thị trường, nhưng nếu chỉ tính thời gian tối thiểu cho một chu kỳ giảm đàn - tái đàn (không tính đến các dự án cải tạo bổ sung), thì tỷ suất hoàn vốn được kỳ vọng đạt được trong khoảng 2,5 đến 3,5 năm, chưa bao gồm chi phí lãi vay.

Bình luận bài báo

Mục đích của phần này không phải để kham khảo ý tác giả về bài báo mà là nơi thảo luận cởi mở giữa những người dùng 333.
Để lại một bình luận mới

Quyền truy cập chỉ dành cho người dùng 333. Để bình luận bạn cần đăng nhập.

Bạn chưa đăng ký vào danh sách nhận Tin tức ngành heo

Tin tức ngành heo tới email của bạn

Đăng nhập và đăng ký vào danh sách

Bài báo liên quan

Bạn chưa đăng ký vào danh sách nhận 333 trong 3 phút

Bản tin tuần với tất cả các cập nhật trên 3tres3.com

Đăng nhập và đăng ký vào danh sách