Các bệnh tích trên phổi tại cơ sở giết mổ: Làm thế nào để đánh giá?

Marina Sibila i VidalJoaquim SegalésMaria PietersLuís Guilherme Oliveira Dominiek Gabriel Daniel Maes
02-Th10-2023 (Trước đó 7 tháng 15 ngày)

Cho đến nay, đánh giá bệnh tích trên phổi là thông tin được thu thập thường xuyên nhất, về cơ bản để xác nhận và định lượng các vấn đề về hô hấp, cũng như để đánh giá kết quả của các chiến lược can thiệp đã áp dụng. Hai bệnh tích phổi phổ biến nhất được quan sát thấy tại cơ sở giết mổ heo là:

Trong bài viết này, CVPC đề cập đến các vùng phổi nhục hóa có màu tím sẫm và được xác định nằm ở phần rìa của các thùy đỉnh, thùy giữa, thùy phụ cũng như một phần của các thùy hoành cách mô (Hình 1). cranio-ventral pulmonary consolidation (CVPC) lesions caused by M. hyopneumoniae

Trong hầu hết các trường hợp, loại bệnh tích này có liên quan đến sự xâm nhiễm của Mycoplasma hyopneumoniae (M. hyopneumoniae). Tuy nhiên, bệnh tích này có thể được tạo ra bởi các tác nhân gây bệnh khác, chẳng hạn như vi rút cúm heo trong thể bệnh đa ổ, Bordetella bronchisepticaPasteurella multocida theo kiểu lây lan hơn. Do đó, (các) tác nhân gây bệnh phải được xác định bằng kỹ thuật phòng thí nghiệm.

Trong các ca bệnh M. hyopneumoniae cấp tính (và không có nhiễm trùng thứ phát), bệnh tích rõ ràng và được phân giới rõ, dễ dàng nhận biết và chấm điểm. Tuy nhiên, trong hầu hết các trường hợp, bệnh tích trở nên trầm trọng hơn khi có sự hiện diện của các mầm bệnh vi khuẩn hoặc vi rút khác, làm thay đổi về màu sắc, độ đông đặc và phạm vi lan rộng (nhưng không thay đổi vị trí ở phần rìa phổi).

Tại cơ sở giết mổ, các bệnh tích CVPC có xu hướng mãn tính, màu sắc có xu hướng trở nên xám và mô có thể bị co lại tạo thành sẹo hoặc các rãnh liên thùy, làm cho việc quan sát và chấm điểm phổi trở nên phức tạp. Nếu có các bệnh tích khác, chẳng hạn như viêm màng phổi, việc chấm điểm các thùy có thể bị ảnh hưởng, thậm chí có thể gây khó khăn hơn hoặc không thể đánh giá được. Khi quan sát bằng mắt thường, mức độ nghiêm trọng của CVPC được chấm điểm bằng mức độ lan rộng của nó; tỷ lệ mô bị ảnh hưởng càng cao thì bệnh tích càng nghiêm trọng.

Viêm màng phổi chính là nhắc đến tình trạng viêm màng thanh dịch. Khi bệnh tích này chỉ giới hạn ở mặt lưng phổi, có thể nghi ngờ rằng đây là kết quả của việc xâm nhiễm từ Actinobacillus pleuropneumoniae (Hình 2). Các ca bệnh mãn tính (thường xuất hiện ở cơ sở giết mổ) được đặc trưng bởi việc dính kết các sợi huyết màng phổi và màng nội tạng. Trong những trường hợp như vậy, mô phổi thường bị dính chặt và một phần phổi dính vào thành ngực trong quá trình lấy phổi ra khỏi thân thịt, dẫn đến việc nó bị cắt bỏ. Trong trường hợp này, sự hiện diện của những miếng phổi dính vào thành ngực sẽ là dấu hiệu của mức độ bệnh tích nghiêm trọng. Pig lung showing a dorso-caudal unilateral, fibrinous-fibrous pleuritis

Hệ thống chấm điểm bệnh tích phổi là các phương pháp dễ làm và không phức tạp, nó cung cấp thông tin về tỷ lệ lưu hành và mức độ lan rộng của bệnh tích (nhưng không phải tỷ lệ nhiễm bệnh) với chi phí phải chăng (không cần thêm thiết bị hỗ trợ). Tuy vậy, phương pháp này cũng chỉ là ước tính không mang tính khẳng định (không chẩn đoán căn nguyên) và có tính chủ quan (cần đào tạo người thực hiện), có thể khó tổ chức (đặc biệt khi heo được đưa đến cơ sở giết mổ bằng nhiều xe tải hoặc khi có những thay đổi bất ngờ về thời gian nhập heo hoặc thời gian giết mổ) và do đó trở nên tốn kém và mất thời gian đối với người thực hiện.

Có rất nhiều hệ thống chấm điểm bệnh tích phổi CVPC, hầu hết dựa trên ước tính trực quan về mức độ bệnh tích của mô phổi bị ảnh hưởng (tính theo điểm hoặc tỉ lệ phần trăm) (Bảng 1). Một số hệ thống khác sử dụng phương pháp tiếp cận 3 chiều bằng cách chuẩn hóa phần trăm mô phổi bị ảnh hưởng theo trọng lượng hoặc thể tích tương đối của mỗi thùy phổi. Bất kể sự khác biệt, các phương pháp chính để chấm điểm CVPC được sử dụng thường xuyên nhất tại lò mổ đã chứng minh mối tương quan tốt giữa chúng. Một số hệ thống chấm điểm sử dụng sơ đồ hoặc hình ảnh để hỗ trợ ghi chép lại các bệnh tích, cho phép phân tích hồi cứu và chính xác, nhưng khiến cách làm này trở nên không thực tế vì các bộ lòng di chuyển cực kỳ nhanh trong dây chuyền giết mổ.

Bảng 1. Hệ thống chấm điểm chính cho bệnh tích nhục hóa vùng rìa phổi (CVPC) (được chỉnh sửa bởi Maes và cộng sự, 2023).

Phương pháp Đơn vị Tổng điểm Thông số được sử dụng để chấm điểm bệnh tích ở các thùy
Goodwin và cộng sự, 1969 điểm 0-55 kiểu bệnh tích
Hannan và cộng sự, 1982 điểm 0-35 kích thước của thùy
Madec và Kobisch (1982) điểm 0-28 4 điểm cho mỗi thùy
Morrison và cộng sự, 1985 phần trăm 0-100 trọng lượng của thùy
Straw và cộng sự, 1986 phần trăm 0-100 kích thước của thùy
Christensen và cộng sự, 1999 phần trăm 0-100 trọng lượng của thùy và kiểu bệnh tích
Phương pháp Dược điển châu Âu phần trăm 0-100 trọng lượng của thùy
Sibila và cộng sự, 2014 phần trăm 0-100 phân định trong hình có vùng mô bị ảnh hưởng

Tương tự, có một số hệ thống chấm điểm cho bệnh viêm màng phổi (Bảng 2).

Bảng 2. Hệ thống chấm điểm viêm màng phổi được sử dụng tại lò mổ (được chỉnh sửa bởi Maes và cộng sự, 2023).

Phương pháp Thông số chính Điểm Phân loại
Madec Kobisch (1982) Vị trí, mức độ lan rộng và kích thước (đường kính) của bệnh tích viêm màng phổi

Chấm điểm từ 0 đến 4 điểm trên mỗi thùy. Tổng 28 điểm.

0: Không xuất hiện bệnh tích viêm màng phổi
1: Viêm màng phổi gian tiểu thùy
2: Viêm màng phổi khu trú <2cm
3: Viêm màng phổi lan rộng đường kính <2cm dính vào lồng ngực
4: Cắt bỏ một phần hoặc toàn bộ phổi dính sườn
CTPA
Pagot và cộng sự, 2007
Sự lan rộng và mãn tính của bệnh tích viêm màng phổi 0-2 0: Không xuất hiện bệnh tích viêm màng phổi
1: Viêm màng phổi dính sợi huyết
2: Viêm màng phổi lan rộng: không thể lấy phổi ra khỏi thân thịt
Pointon và cộng sự,
1992
Các loại dính kết và sự hiện diện của viêm phổi 0-2

0: Không xuất hiện bệnh tích viêm màng phổi
1: Viêm màng phổi gian tiểu thùy

  • Viêm màng phổi 1N với phổi bình thường
  • Viêm màng phổi 1P có viêm phổi

2: Viêm màng phổi (phổi dính vào thành ngực):

  • Viêm màng phổi 2N với phổi bình thường
  • Viêm màng phổi 2P có viêm phổi
SPES
Dottori và cộng sự, 2007
Vị trí, độ lan rộng của bệnh tích viêm màng phổi

Chấm điểm từ 0 đến 4 điểm trên mỗi thùy. Tổng 28 điểm.

1: Bệnh tích vùng rìa màng phổi: viêm màng phổi gian tiểu thùy hoặc vùng rìa
2: Bệnh tích tập trung một bên mặt lưng phổi
3: Bệnh tích lan ra cả hai lá phổi hoặc bệnh tích lan rộng hết một bên (ít nhất chiếm 1/3 của MỘT thùy hoành cách mô)
4: Nhiều bệnh tích lan rộng ở hai bên lá phổi (ít nhất chiếm 1/3 của MỘT thùy hoành cách mô)

CTPA: Hệ thống của Trung tâm Kỹ thuật Chăn nuôi Động vật
SPES: Hệ thống Đánh giá tình trạng Viêm màng phổi tại cơ sở giết mổ

Việc lựa chọn hệ thống chấm điểm để áp dụng tại cơ sở giết mổ cần được xác định tùy thuộc vào:

Việc sử dụng thiết bị ghi âm để ghi lại điểm bệnh tích có thể giúp ích rất nhiều khi làm việc với dây chuyền giết mổ tốc độ cao và cho phép sờ nắn phổi bằng tay. Các phương pháp dựa trên trí tuệ nhân tạo để tự động đánh giá bệnh tích phổi có thể giúp quy trình được tự động hóa và khách quan hóa. Tuy nhiên, các hệ thống này vẫn đang được phát triển vì chúng cần được đào tạo và điều chỉnh để chụp và phân tích hình ảnh các phổi đang treo và di chuyển.

Tóm tắt ngắn gọn của bài viết: Review on the methodology to assess respiratory tract lesions in pigs and their production impact. Maes D, Sibila M, Pieters M, Haesebrouck F, Segalés J, de Oliveira LG. Vet Res. 2023 54(1):8. doi: 10.1186/s13567-023-01136-2.